Sử dụng Ngựa Mông Cổ

Ngựa Mông Cổ được huấn luyện để dùng cho việc săn bắn, vận chuyển và đặc biệt là dùng trong chiến tranh. Ngựa Mông Cổ gắn liền với sự kiện quan trọng trong lịch sử thế giới đó là sự hình thành và bành trướng của Đế chế Mông Cổ trên toàn thế giới thời đó. Thuật ngữ vó ngựa Mông Cổ gây khiếp đảm cho những giống dân bản xứ nhất là ở châu Âu với câu nói Vó ngựa Mông Cổ đến đâu thì ở đó cỏ không mọc được.

Nhưng con ngựa mới là loài thiết yếu hơn hết trong đời sống du mục. Trên một cõi đất bao la mà những cánh đồng cỏ thường cách nhau hàng trăm dặm đường, người Mông Cổ chỉ trông cậy vào phương tiện giao thông nhanh hơn hết là ngựa. Sữa của con ngựa được chế biến thành các airag đồ uống, và một số động vật được giết mổ thịt. Khác hơn thế, chúng phục vụ cho cả công việc hàng ngày của những người du mục và trong cuộc đua ngựa. Họ chú trọng sản xuất ngựa thật nhanh, thật nhiều vì mỗi tấc đường đều cần đến ngựa và chỉ có họ mới điều khiển nổi những con ngựa bất kham ấy.

Thuần dạy

Trong lịch sử, người Mông Cổ cưỡi ngựa thì họ phi ngựa như bay không cần cầm cương, hai tay đều rảnh để cầm vũ khí. Ngựa đang phi họ có thể nhảy xuống đất chạy theo, rồi nhảy trở lại lên lưng như trò xiếc: có thể cưỡi suốt 15 giờ liền, mỗi ngày đi được 75 cây số. Họ rong ruổi đây đó, hoặc theo bầy súc vật hoặc đuổi thú rừng. Cuộc sống trên lưng ngựa đã gây cho người Mông Cổ một tâm hồn khoáng đạt, tự do; những lúc đi xa thường phải phi ngựa đơn độc và tự bảo vệ lấy sinh mạng của mình, do đó họ có tinh thần bình đẳng và tinh thần độc lập mạnh mẽ. Ngoài ra, qua bao thế kỷ, việc nuôi ngựa và say mê thích thú nghề kỵ mã đã tạo ra một số người nặng óc tự tôn, trở thành giai cấp quý tộc Mông Cổ.

Người Mông Cổ rất coi trọng việc chăm sóc bầy gia súc, nhất là thuần dưỡng chiến mã, trong cuộc trường chinh, họ cũng tìm cách bổ sung bầy chiến mã từ nguồn chiến lợi phẩm. Sau những trận chiến, kỵ binh Mông Cổ thản nhiên nhảy xuống ngựa mà không cần buộc dây cương, với loài chiến mã Mông Cổ này, chúng được huấn luyện thuần thục, ít khi cất tiếng hý vang, cũng không dám dời chỗ dù suốt cả ngày cũng vậy trừ khi đêm xuống phải lùa tập trung vào một nơi có nguồn cỏ xanh non, đến sáng người mông Cổ có thể thắng yên trên lưng chiến mã mà không cần phải cho ăn uống tiếp[7]. Trong thời gian chính chiến hoặc trải qua một cuộc hành trình dài, ít khi người Mông Cổ cho ngựa ăn nhiều, vì theo họ, trong lúc đang di chuyển khó nhọc, ăn vào ngựa dễ sinh bệnh. Trong khi đó các bộ lạc ở phía Nam Trung quốc không biết được bí quyết này, thường cho ngựa ăn uống dọc đường quá nhiều nên ngựa rất hay đau yếu[8]

Người Mông Cổ rất có kinh nghiệm thuần dưỡng, huấn luyện loài chiến mã, họ huấn luyện ngựa giống ngay từ khi nó được một vài tuần tuổi, vì vậy khi được ba tuổi trở lên, giống ngựa Mông Cổ đã trở nên thuần thục, phục tùng chủ nó mà không hề dám cưỡng lại[7]. Đối với những con ngựa bất kham, khó dạy, người Mông Cổ thường bỏ đói hoặc buộc dây cương ngắn khiến đầu nó phải ngất cao lên, cho đến lúc nào con ngựa mỏi gối chồn chân, hết thái độ ương ngạnh thì họ mới thả và cho chúng ăn uống[8] Người Mông Cổ còn biết phân biệt hai loại chiến mã. Loại ngựa giống chưa bị lai tạo được gọi là "Công Mã", loại thứ hai gồm những con đã lai giống gọi là "Loa Mã". Người Mông Cổ đã biết dùng loại ngựa nòi (ngựa đực giống)-Công Mã làm đầu đàn, thường thì mỗi "Công Mã" được giao nhiệm vụ kiềm chế năm sáu chục con "Loa Mã", loại Công Mã này thường rất khỏe và hung hãn khiến những con Loa Mã khác phải khiếp sợ và phục tùng[8] Có thể nói rằng việc tập luyện chiến mã của người Mông Cổ đã đạt đến trình độ công phu và tuyệt diệu, vó ngựa trường chinh của kỵ binh Mông Cổ đã khiến người phương Tây khiếp sợ và hết sức thán phục[9]

Phương tiện

Ngựa là phương tiện di chuyển chính của người Mông Cổ

Số ngựa ở Mông Cổ còn nhiều hơn cả số dân, và loài ngựa chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong văn hóa ở Mông Cổ. Người Mông Cổ coi loài ngựa như là bạn đồng hành trong suốt cả ngày lẫn đêm. Ngựa vừa là niềm vui vừa là sự tự hào của người dân Mông Cổ. Loài ngựa phổ biến trong văn hóa của người Mông Cổ tới nỗi, nếu một ai đó muốn đi vệ sinh họ sẽ bảo với những người xung quanh rằng: Để tôi đi xem con ngựa của mình một lát.[6]

Trẻ con Mông Cổ học cưỡi ngựa từ năm 3 tuổi, gần như cùng thời điểm với lúc chúng tập đi chập chững những bước đầu tiên. Trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội Nadaam, hàng nghìn con ngựa được tập hợp lại để chuẩn bị cho 3 môn thể thao chính là đua ngựa, bắn cung và đấu vật. Quãng đường diễn ra cuộc đua ngựa là từ 15–30 km. Trước mỗi cuộc đua, mỗi địa phương sẽ chọn ra một người lãnh đạo đội thi của mình (còn gọi là Gal trong tiếng Mông Cổ) sẽ lĩnh trọng trách huấn luyện ngựa đua của mình bằng những phương pháp đặc biệt được truyền từ đời này sang đời khác.[6]

Khác với các nước phương Tây, dân Mông Cổ cầm dây cương ngựa bằng một tay, và dùng những bàn đạp nhỏ hơn. Họ cũng không đặt tên cho mỗi con ngựa của mình, mà thay vào đó dùng những từ chỉ màu sắc để gọi chúng. Có tới hơn 300 từ chỉ màu sắc thường được dùng để phân biệt những con ngựa với nhau ở Mông Cổ, và đặc biệt hơn là không ai nhầm lẫn khi sử dụng chúng. Có một số quy định bắt buộc cần phải tuân theo khi muốn chinh phục một chú ngựa Mông Cổ là không được mặc quần áo quá sặc sỡ, không được mặc những thứ phát ra tiếng sột soạt, luôn mặc quần dài và phải trèo lên lưng ngựa từ phía bên trái, không được ngồi hay quỳ gối ở gần ngựa.[6]

Với khách du lịch nước ngoài, một khóa học thường kéo dài ít nhất 7 ngày, đối tượng để du khách lựa chọn thường là những con ngựa non khoảng 2 tuổi, đơn giản là bởi vì chúng sẽ dễ bảo hơn những con ngựa già khác. Bắt đầu từ việc làm quen với ngựa, tìm hiểu những thói quen riêng của từng con, học cách chăm sóc vỗ về chúng trong suốt cả ngày và mức độ cao nhất là khi một du khách có thể điều khiển ngựa để chăn những đàn cừu, dê hay bò trên thảo nguyên. Những con ngựa được huấn luyệt tốt có khả năng chạy liên tục dù không còn người chủ ở trên lưng.

Tại Việt Nam, trại ngựa Trung Nguyên là một phần của trang trại Krông Á. Ban đầu, ngựa nuôi chủ yếu là giống ngựa Mông Cổ, dáng thấp bé. Về sau có thêm những con ngựa hay nhất của trường đua Phú Thọ. Ban đầu, Trung Nguyên chỉ nuôi những giống ngựa bạch có nguồn gốc từ đất nước vó ngựa là ngựa Mông Cổ và một vài giống ngựa có nguồn gốc khác về nuôi thử nghiệm[10]. Hiện nay, Việt Nam đang có dự án Luật Cảnh sát cơ động thay thế cho Pháp lệnh Cảnh sát cơ động trong đó có nội dung về việc tăng thêm một số tổ chức mới như Trung đoàn Cảnh sát cơ động Kỵ binh. Theo đó, tiếp nhận 105 con ngựa Mông Cổ để phục vụ cho Trung đoàn Cảnh sát cơ động Kỵ binh hoạt động. Phần lớn số ngựa vẫn đang được thuần dưỡng ở Thái Nguyên với sự huấn luyện của chuyên gia nước ngoài, số ngựa sau khi được thuần dưỡng sẽ phục vụ tuần tra, phòng chống tội phạm, xử lý tình huống đảm bảo an ninh trật tự; đồng thời phục vụ các nghi lễ, nghi thức[11][12].

Ẩm thực

Bài chi tiết: Thịt ngựa
Thịt ngựa được bày bán tại Mông Cổ

Người Mông Cổ trước đây thường không ăn thịt ngựa. Nếu cùng đường, bất đắc dĩ phải ăn thịt ngựa trong trường hợp không còn gì ăn, để cứu đói, thì bao giờ người ta cũng chừa lại cái đầu và cất công mang lên đỉnh núi cao nhất để thờ[13]. Người Mông Cổ ăn xúc xích thịt ngựa gọi là kazy và uống thứ rượu làm từ sữa ngựa gọi là airag. Họ chuộng thịt bòthịt cừu hơn, song thịt ngựa vẫn được nhiều người chọn dùng vào mùa đông giá lạnh vì nó ít cholesterol và thịt ngựa được giữ cho không đông và theo truyền thống, người Mông Cổ tin rằng thực phẩm này giúp cho cơ thể ấm hơn. Người Kazakhstan cũng là dân du mục nên sử dụng thịt ngựa làm thực phẩm thông dụng. Người Kazakhstan có nhiều cách chế biến thịt ngựa như là, xúc xích thịt ngựa gọi là shuzhuk, thịt ngựa sấy khô gọi là sur-yet.

Ngoài ra, Ngựa là nguyên liệu cho nhiều sản phẩm do con người làm trong suốt lịch sử, trong đó có các sản phẩm phụ từ việc giết ngựa lấy thịt hay thu thập những sản phẩm từ những con ngựa sống. Sản phẩm thu được từ ngựa sống như sữa ngựa, được các trại chăn nuôi ngựa sản xuất, chẳng hạn như ở Mông Cổ, người ta để cho sữa ngựa lên men rồi sản xuất gọi là kumis (giống như chất rượu) Hiện nay loại này vẫn còn quan trọng đối với các dân tộc Trung Á thảo nguyên, Huno-Bulgar, gốc Thổ Nhĩ Kỳ và Mông Cổ: Bashkirs, Kalmyk, Kazakh, Kyrgyzstan, Mông Cổ, người Duy Ngô Nhĩ, và Yakuts. Máu ngựa đã từng được sử dụng như thực phẩm của người Mông Cổ và các bộ lạc du mục, người ta đã tìm thấy nó là một nguồn dinh dưỡng thuận tiện khi đi đoạn đường quá xa hay đi du lịch. Người Mông Cổ uống máu ngựa làm cho họ đi xe trong thời gian dài mà không cần dừng lại để ăn.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngựa Mông Cổ http://taletellerin.wordpress.com/2010/04/18/3-the... http://www.ansi.okstate.edu/breeds/horses/mongolia... http://digitalcollections.sit.edu/cgi/viewcontent.... http://digitalcollections.sit.edu/cgi/viewcontent.... http://mongol.undesten.mn/wiki/show/name/%D0%9C%D0... http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van... http://rcin.org.pl/Content/22467/WA308_34845_PIII3... http://www.bionet.nsc.ru/meeting/bgrs2002/thesis/B... http://baophapluat.vn/xa-lo-phap-luat/dan-ngua-tri... http://www.bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi...